Vai trò của các trường đại học Việt Nam trong việc xây dựng các MOOC phục vụ nhu cầu học tập suốt đời của người lớn

HỘI THẢO “TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI VIỆC XÂY DỰNG TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ,

ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CỦA NGƯỜI LỚN”

Vai trò của các trường đại học Việt Nam trong việc

xây dựng các MOOC phục vụ nhu cầu học tập suốt đời của người lớn

 

 T.S Đặng Hải Đăng – Phó Trưởng Khoa – Khoa Công nghệ Điện tử- Thông tin,

 Trường Đại Học Mở Hà Nội

Địa chỉ: B101 Nguyễn Hiền, P. Bách Khoa, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội

Tel: 0983911478         E-mail: dangdh@hou.edu.vn

 

  1. Các chủ trương, chính sách và việc thực hiện về học tập suốt đời của người lớn và xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam

Giáo dục, đặc biệt là giáo dục dành cho người lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng xã hội học tập tại các quốc gia. Mặc dù được coi là giáo dục không chính thống và không được tổ chức, giám sát chặt chẽ, giáo dục dành cho người lớn vẫn được xem như một thành tố quan trọng trong việc nâng cao dân trí và ý thức công dân.

Xét về mặt vĩ mô, xây dựng xã hội học tập tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân học tập suốt đời là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04-11-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”, đã chỉ rõ một trong các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam là “hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập”.

Tiếp đó, để hiện thực hóa chủ trương này, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 – 2020” để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập. Bộ giáo dục và Đào tạo là đơn vị chủ trì cùng phối hợp với Hội khuyến học Việt Nam để xây dựng 6 đề án thành phần:

  • Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”;
  • Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ”;
  • Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”;
  • Đề án “Truyền thông và xây dựng xã hội học tập”;
  • Đề án “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời cho công nhân lao động trong các doanh nghiệp”;
  • Đề án “Phát triển giáo dục từ xa”

Ngoài ra, nhiều chương trình giáo dục được phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng như Chương trình hướng dẫn ôn tập và luyện thi đại học và Chương trình dạy tiếng Anh trên VTV2; Chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài trên VTV4; Chương trình giáo dục các kỹ năng sống trên VTV3; các chương trình Chào buổi sáng, đời sống thường ngày trên VTV đã giúp cho người dân có được những kiến thức về chăn nuôi, trồng trọt, thực hiện pháp luật, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe người dân; Chương trình học tiếng Anh Obla Air trên trên kênh VOV2 (Kênh Văn hóa, Xã hội và Giáo dục) và VOV5 (Hệ Phát thanh Đối ngoại Quốc gia); kênh Truyền hình Giáo dục quốc gia phát sóng trên kênh truyền hình VTV7 với mục tiêu “Vì một xã hội học tập”, cung cấp các tri thức đa dạng cho nhiều tầng lớp khán giả khác nhau…(Nguyễn Hữu Độ, 2019)

Các đề án này đã được triển khai sâu, rộng và lan tỏa ở hầu hết các cấp, ngành và địa phương nhưng để đánh giá được tính hiệu quả của các đề án thì phụ thuộc rất nhiều vào cách thức thực hiện của từng tổ chức, sự vào cuộc của các cấp quản lý và cá nhân từng người học. Ngoài ra, việc học tập này thường mang tính tự nguyện của người học. Trong nhiều trường hợp, số lượng các khóa học được cung cấp không phong phú, chủ đề không hấp dẫn hoặc không liên quan đến cá nhân người học có thể khiến họ mất động lực học tập và trở nên không hứng thú dẫn đến không đạt được mục tiêu giáo dục.

Hầu hết các đề án được triển khai phần nhiều mang tính phong trào và sử dụng tổng hợp các kết quả báo cáo theo kiểu số lượt người, số lượng phong trào, thời gian và các hoạt động tham gia….Các nội dung học tập không có quá trình kiểm tra, đánh giá và không có giám sát thực hiện, chu kì đánh giá một cách cụ thể. Khi các số liệu tổng hợp mang tính chất định tính hoặc định lượng nhưng không có nhiều giá trị sử dụng thì việc đánh giá mức độ thành công của các đề án trở nên bất khả thi.

  1. Xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời cho người lớn: Sứ mạng mới cho các trường đại học Việt Nam.

Giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có những bước phát triển ổn định, từng bước thực hiện phân tầng của hệ thống giáo dục đại học; cải tiến, nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và đội ngũ giảng viên; một số chương trình đào tạo dã đạt chuẩn kiểm định chất lượng của các cơ quan kiểm định chất lượng quốc tế; số lượng và chất lượng bài báo, công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện và đăng tải tăng dần qua các năm.

Trong ba sứ mạng của các trường đại học, đào tạo và nghiên cứu khoa học vẫn được coi là các sứ mạng chủ đạo. Trong khi đó, sứ mạng phục vụ cộng đồng của các trường đại học vẫn chưa được xác định một cách cụ thể, hoặc nếu có thì lại lồng ghép vào hai sứ mạng nêu trên.

Trong khoảng thời gian 20 năm trở lại đây, giáo dục đại học tại Việt Nam đang có bước chuyển biến rõ rệt từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng với số lượng người học được tiếp cận giáo dục đại học tăng nhanh. Bên cạnh các loại hình đào tạo đại học chính quy, các loại phương thức giáo dục không chính quy cũng có sự phát triển bùng nổ như: liên thông từ trung cấp/ cao đẳng lên đại học, đại học tại chức, đại học từ xa, đại học trực tuyến (E-learning). Tuy nhiên số lượng người học được tiếp cận các dịch vụ học tập vẫn hầu hết chỉ là các sinh viên và học viên của các trường đại học.

Theo UNESCO, giáo dục dành cho người lớn ở mức độ bậc cao (giáo dục sau phổ thông) có ba loại hình được liệt kê trong bảng sau (UNESCO, 2010):

Giáo duc chính quyGiáo dục không chính quyGiáo dục phi chính quy
Là loại hình giáo dục được cung cấp bởi các tổ chức giáo dục. Loại hình này có cấu trúc (có mục tiêu học tập, thời gian học tập hoạc các hỗ trợ về học tập) và sau khi kết thúc học viên sẽ nhận được chứng chỉ / bằng cấp.Quá trình đào tạo diễn ra bên ngoài hệ thống chính quy, đều đặn và liên tục. Phần lớn các chương trình đào tạo không chính quy cung cấp các loại văn bằng, chứng chỉ cho học viên sau khi tốt nghiệp.Quá trình học tập diễn ra từ các hoạt động hàng ngày từ công việc, gia đình hoặc giải trí. Giáo dục phi chính quy có thể xem như một phần của giáo dục không chính quy. Nó cũng được xem như học tập dựa trên kinh nghiệm hoặc học tập tình cờ.

Bảng 1. Các loại hình giáo dục bậc cao theo phân loại của UNESCO

Đối chiếu với định nghĩa của UNESCO, các trường đại học Việt Nam chỉ chủ yếu tập trung vào hai loại hình đầu tiên. Đối với giáo dục phi chính quy, đây là một thị trường mới và tiềm năng mà các trường đại học còn bỏ ngỏ. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực hầu như chỉ có các tổ chức giáo dục tư nhân tại Việt Nam khai thác (Dang, 2018).

Như vậy, có thể nói, các trường đại học chỉ chủ yếu tập trung vào đào tạo sinh viên theo hệ thống chứng chỉ, văn bằng quốc gia theo chỉ tiêu tuyển sinh đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo (đã căn cứ trên nhu cầu nguồn lực thực tế của các nhà trường). Các khóa học chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng mềm hoặc bổ túc kiến thức nếu có cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi sinh viên trong trường, trường bạn hoặc là các đối tượng cán bộ có nhu cầu cụ thể về việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn (tin học, tiếng Anh, chứng chỉ nghiệp vụ .v.v.).

Tất cả những chương trình đào tạo nêu trên đều mất chi phí, có thời gian đào tạo dài và chỉ phục vụ một vài loại đối tượng người học cụ thể, do vậy giá trị phục vụ cộng đồng của chúng là không nhiều.

Tại Việt Nam, các trường đại học có quy mô đào tạo lớn nhất như các đại học quốc gia cũng chỉ có khoảng trên dưới 100,000 sinh viên theo học. Trong khi đó, theo ước tính, Việt Nam sẽ có khoảng 100 triệu dân vào năm 2025 với cơ cấu dân số chiếm tỉ lệ lớn nằm trong độ tuổi lao động. Với quy mô dân số như vậy, nhu cầu học tập của xã hội sẽ bùng nổ và thực sự đa dạng trong thời gian tới đây.

Để đáp ứng được nhu cầu học tập của xã hội, các hệ thống học tập trực tuyến đặc biệt là các MOOC sẽ là xu thế chủ đạo trong tương lai gần. Trong khi đó, các trường đại học Việt Nam vẫn chỉ xoay quanh việc phát triển các chương trình hướng tới sinh viên, học viên của họ và chưa có ý định mở rộng sang các đối tượng khác.

Một số câu hỏi đặt ra là: Sứ mạng của các trường đại học có thích hợp với công việc xây dựng xã hội học tập và học tập của người lớn hay không? Nếu các trường đại học không tham gia xây dựng xã hội học tập và học tập của người lớn ngoài khuôn khổ sứ mạng đã xác định, họ có bị ảnh hưởng gì không? Nếu các trường đại học không tham gia xây dựng xã hội học tập và học tập của người lớn thì những tổ chức nào thích hợp để tham gia?

Để trả lời câu hỏi đầu tiên, hãy xét đến nền tảng MOOC lớn nhất thế giới hiện nay là Coursera với khoảng 30 triệu người học. Nhiều khóa học miễn phí và dành cho các đối tượng người học đủ mọi cấp độ từ bắt đầu cho đến chuyên sâu. Các khóa học này hầu hết được các giáo sư của các trường hàng đầu thế giới như Havard, Oxford, Princeton,.v..v..giảng dạy. Các giáo sư còn được hỗ trợ bởi đội ngũ kỹ thuật viên làm animation, hình ảnh và âm thanh để làm phong phú thêm cho nội dung cần truyền tải. Các khóa học MOOC này thường có thời lượng từ 2 đến 6 tuần lễ và có những khóa học có tới hàng trăm ngàn người tham gia. Một số khóa học MOOC có thể xâu chuỗi và tổ hợp để trở thành các khóa học cấp chứng chỉ và trả phí khi được phát hành bởi các trường đại học.

Quay trở lại với hai câu hỏi sau, nếu các trường đại học không tham gia vào quá trình giáo dục người lớn thì các tổ chức tư nhân (không phải các trường đại học, cao đẳng tư thục) đã làm rất tốt, thậm chí họ còn lấn sân vào lĩnh vực đào tạo đại học vốn là đặc quyền của các trường đại học.

Hiện nay, Tổ hợp Giáo dục Topica là đơn vị hàng đầu trong đào tạo trực tuyến tại Việt Nam. Đối với chương trình đào tạo đại học, Topica đứng ra tổ chức tuyển sinh và cung cấp nền tảng học tập trực tuyến, các hỗ trợ người học; các trường đại học là bên giám sát chất lượng, cung cấp giảng viên và cấp bằng cử nhân / kỹ sư hệ đào tạo trực tuyến theo đúng quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo. Hàng năm, các chương trình liên kết giữa Topica và các trường đại học trong cả nước tuyển sinh ước tính trên 10,000 chỉ tiêu.

Bên cạnh đó, Topica còn triển khai chương trình Tiếng Anh Topica Native dành cho người đi làm muốn nâng cao trình độ, đây là chương trình tiếng Anh được đánh giá cao và có nhiều người theo học. Chương trình sử dụng ý tưởng nền kinh tế chia sẻ nơi người học có nhu cầu học tiếng Anh và người dạy là người bản ngữ, có khả năng sư phạm và thực hiện kết nối 1-1 thông qua hạ tầng Internet để giao tiếp tiếng Anh qua các chủ đề được lựa chọn.

Ngoài ra, Topica còn cung cấp các MOOC có thu phí trên nền tảng Edumall nơi người học có thể học các khóa học phát triển bản thân, kỹ năng mềm, kỹ năng làm việc văn phòng .v.v. Kyna.org và Unica cũng là các đơn vị phát triển các MOOC theo dạng khóa học tổng quát giống như Coursera và cũng có thị phần nhất định tại Việt Nam (Đặng Hải Đăng, 2018).

Như vậy, các tổ chức giáo dục tư nhân với nguồn lực tài chính lớn, cơ chế quản trị mềm dẻo và linh hoạt thực sư là những đối thủ cạnh tranh với các trường đại học. Nếu các trường đại học không thay đổi tư duy, nhìn nhận lại sứ mạng một cách nghiêm túc thông qua việc mở rộng tầm ảnh hưởng với cộng đồng thông qua phát triển các sản phẩm giáo dục phục vụ học tập suốt đời và tiến tới xây dựng xã hội học tập cho tất cả các đối tượng. Với vai trò này, các trường đại học sẽ là các đầu mối sản xuất và cung cấp tri thức có chất lượng, phục vụ vào việc nâng cao dân trí và nhận thức công dân cho toàn xã hội.

  1. Giáo dục giá trị sống và định hướng dư luận trên không gian mạng.

Với sự bùng nổ của khoa học – kỹ thuật, ngày nay, người học có thể học được mọi lúc mọi nơi bằng việc sử dụng các thiết bị như smartphone, tablet, laptop hoặc PC. Bên cạnh việc sử dụng cho giao tiếp, công việc, mua sắm trực tuyến các thiết bị này còn được sử dụng để làm phương tiện giải trí, học tập.

Theo báo cáo mới nhất của We are social, Việt Nam có tổng dân số 96.02 triệu người năm 2018 nhưng có đến 70.03 triệu người dùng điện thoại di động (chiếm 73%) và 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67%). Trong số đó, số người dùng mạng xã hội đạt 55 triệu (chiếm 57%) trong đó người dùng mạng xã hội bằng thiết bị di động đặt 50 triệu (chiếm 52%).

Với các khảo sát cụ thể hơn về số lượng người trưởng thành sử hữu các thiết bị cho thấy điện thoại chiếm 97% (bất kể loại) trong đó điện thoại thông minh chiếm 72%, laptop chiếm 42%, máy tính bảng chiếm 13%, tivi chiếm 97% (bất kể loại), thiết bị streaming các nội dung internet sang tivi chiếm 5% và thiết bị đeo tay thông minh chiếm 1%.

Đi sâu hơn nữa vào xu hướng sử dụng các thiết bị thông minh, mỗi ngày bình quân một người sử dụng dành 6 giờ 52 phút để sử dụng internet, trong đó 2 giờ 37 phút để sử dụng mạng xã hội, 2 giờ 43 phút để xem các chương trình TV, video on demand, video streaming và 1 giờ 12 để nghe nhạc (We are social, 2018).

Tuy nhiên, thông tin trên mạng xã hội và các nguồn không chính thống khác có thể định hướng dư luận theo chiều hướng xấu, khiến người sử dụng có những nhận định sai lạc. Vì máy chủ của các hãng lớn như Google, Facebook đều thuộc sở hữu của các tập đoàn quốc tế và đặt tại nước ngoài nên việc kiểm soát nội dung gần như trở nên bất khả thi đối với các nhà quản lý, giám sát nội dung trong nước. Khi những nội dung xấu, độc hại đã được lan truyền với tốc độ chóng mặt và được hàng triệu người biết đến thì các cơ quan quản lý mới biết và vào cuộc bằng cách gửi công văn và chờ đối tác nước ngoài xử lý.

Như vậy, nếu các trường đai học có thể phát triển các khóa học ngắn trên các nền tảng thiết bị thông minh có thể giúp nâng cao ý thức công dân và lan tỏa những giá trị sống tốt đẹp, góp phần định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực.

  1. Các hình thức giáo dục mới trên Internet

MOOC mới được phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây nhưng đã thu hút được hàng trăm triệu người tham gia học trên toàn thế giới. Bản thân MOOC được phát triển từ các nền tảng OER (Open Educational Resource – nguồn học liệu mở) và vẫn đang tiếp tục được nâng cấp để hoàn thiện hơn. Trong thời đại bùng nổ thông tin, việc các chương trình đại học được thiết kế với thời lượng rút ngắn thời gian học xuống còn 3 năm thay vì 4 năm đã được triển khai tại nhiều quốc gia. Một trong những quốc gia đi đầu là Anh với thời gian theo học đại học được rút ngắn xuống còn 3 năm đã được triển khai nhiều năm nay. Các chương trình đại học của Anh mặc dù được được thiết kế với thời lượng 3 năm nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn rất cao. Các nhà khoa học giáo dục cũng nhất trí rằng với khối lượng kiến thức của nhân loại được cập nhật đồ sộ hàng năm như hiện nay, 1 chương trình đào tạo đại học 4 năm sẽ ngay lập tức trở nên lạc hậu sau khi sinh viên ra trường. Chưa kể việc các môn học nằm trong chương trình giáo dục đại học lại được thiết kế chủ yếu bởi các nhà giáo dục, sư phạm nên chỉ tập trung vào việc cung cấp kiến thức nền tảng, do vậy, sinh viên đều phải tự tìm hiểu hoặc học thêm các khóa học bổ trợ chuyên môn để đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng.

Hiện nay các MOOC được thiết kế rất đa dạng và phục vụ các nhu cầu học tập khác nhau từ ngắn hạn đến dài hạn. Nhìn chung, các MOOC được phân loại theo thời lượng như sau:

Thời lượngĐặc điểm
Nano degree (1 – 2 năm)Hệ thống nano degree là một loại chứng chỉ được Udacity phát hành dựa trên sự hợp tác của các trường đại học hàng đầu và các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới phát hành. Các khóa học nano degree chỉ chuyên biệt cho lĩnh vực công nghệ – kỹ thuật ứng dụng và được xây dựng theo hướng tiếp cận học tập theo dự án (project based learning)

Thường thì người học phải mất tối đa 2 năm để hoàn thiện 1 nano degree với chi phí 200 USD/ tháng. Tuy nhiên nếu người học hoàn thành 1 khóa học dưới 1 năm thì họ sẽ được hoàn lại số tiền là 50% tương đương với 100  USD/ tháng.

Với việc hoàn thành khóa học dưới 1 năm và đạt điểm trung bình tích lũy của các môn học trên 80% thì người học sẽ được các tập đoàn công nghệ lớn tuyển dụng trực tiếp.

Mini course (2 – 6 tuần)Các khóa học kéo dài từ 2 đến 6 tuần lễ trên các nền tảng lớn như Coursera, Edx. Các khóa học do các giáo sư thuộc các trường đại học hàng đầu trực tiếp đứng giảng và có sự hỗ trợ của đội ngũ thiết kế khóa học.

Các khóa học có thể xâu chuỗi với nhau từ trình độ bắt đầu cho tới trình độ chuyên sâu. Một tổ hợp của các khóa học xâu chuỗi như thế này được gọi là chứng chỉ chuyên gia sẽ do các trường đại học cùng các nền tảng đồng phát hành và có chi phí khoảng 49 – 99 USD cho mỗi khóa học và khoảng 8 – 10 khóa học cho một chứng chỉ chuyên gia. Các khóa học đều có phần kiểm tra đánh giá như câu hỏi trắc nghiệm khách quan, viết luận hoặc làm các bài tập thực hành trực tiếp trên nền tảng.

Micro learning (30 phút – vài tiếng)Một chủ đề ngắn mô tả hoặc hướng dẫn thực hiện 1 kỹ năng hoặc đề cập về một lý thuyết cụ thể. Mặc dù ngắn nhưng mỗi chủ đề này đều có các hoạt động kiểm tra đánh giá đơn giản như các câu hỏi trắc nghiệm khách quan

Bảng 2. Phân loại MOOC theo thời lượng

Như vậy với một số lượng kiến thức khổng lộ được cập nhật hàng ngày của nhân loại, cách thức học tập và tiếp nhận thông tin của loài người đã có nhiều thay đổi. Các cách thức truyền thống về dạy và học như học thuộc, ghi nhớ và truyền đạt một chiều từ phía giáo viên đã trở nên lạc hậu. Hơn nữa, cách thức hiển thị thông tin trên internet và các mạng xã hội cũng khiến người tiếp nhận thông tin phải đọc lướt và liên tục chuyển đổi chủ đề cũng khiến cho chúng ta khó có thể tập trung lâu vào một chủ đề. Trên internet có rất nhiều thông tin, người học phải biết cách tìm kiếm, chọn lọc và sử dụng thông tin để biến đổi thành kiến thức của họ.

Đó chính là sự tiến hóa của dạy và học trong thời đại mới, do vậy các khóa học cần phải được thiết kế với thời gian ngắn hơn và người học có thể chủ động học mọi lúc mọi nơi trên thiết bị thông minh của mình.

Như đã đề cập ở trên, mỗi ngày trung bình một người lớn ở Việt Nam dùng tới khoảng 7 tiếng để vào mạng. Nếu chúng ta có thể thiết kế các khóa học MOOC với nhiều chủ đề sinh động, đa dạng cũng như có các chính sách tuyên truyền sâu rộng, cung cấp các gói cước dữ liệu rẻ hoặc miễn phí để có thể hướng người sử dụng tham gia học tập một khoảng thời gian từ 15 phút cho đến 30 phút một ngày cũng sẽ góp phần nâng cao dân trí, tiến tới phát triển một xã hội học tập nơi mỗi cá nhân có thể tham gia học tập suốt đời.

  1. Vai trò của các trường đại học trong việc phát triển nguồn học liệu mở và triển khai xây dựng các MOOC cho cộng đồng

Như các phân tích nêu trên, việc các trường đại học xây dựng và chia sẻ các OER, sau đó tích hợp các OER để trở thành các MOOC về trước mắt và lâu dài đem lại những lợi ích sau:

  • Nâng tầm ảnh hưởng và vị thế của các trường đại học trong kỷ nguyên tri thức.
  • Tận dụng được nguồn nhân lực có hàm lượng chất xám cao để xây dựng các OER có giá trị.
  • Định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực bằng việc lan tỏa các giá trị nhân văn và nhận thức đúng đắn
  • Nâng cao dân trí và nhận thức công dân, tiến tới xây dựng một xã hội học tập nơi người dân có thể tìm được các nội dung học tập phù hợp, mọi nơi, mọi lúc thông qua các thiết bị cầm tay thông minh.

Qua khảo sát của tác giả, các trường đại học Việt Nam chưa thực sự đạt được những bước tiến quan trọng trong đào tạo trực tuyến nói chung và MOOC nói riêng. Riêng đối với hai đại học Mở cũng chỉ mới đang thực hiện các giai đoạn đầu tiên của việc triển khai E-learning và một vài khóa MOOC nên chưa thể đánh giá được hiệu quả của các chương trình này.Hầu hêt các trường còn lại đều tập trung vào việc thực hiện hai nhiệm vụ chính là đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, xét cho cùng, sứ mạng phục vụ cộng đồng, đặc biệt là việc truyền bá kiến thức và các giá trị sống đến đông đảo tầng lớp nhân dân mặc dù không nhìn thấy hiệu quả trước mắt nhưng chắc chắn sẽ có những giá trị về lâu dài, tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí của toàn xã hội.

Nếu các trường đại học muốn phát triển MOOC thì trở ngại đầu tiên mà họ phải vượt qua là phải đầu tư một hạ tầng kỹ thuật đủ mạnh để đưa các khóa học lên mạng Internet và phải đáp ứng được một lượng lớn người dùng truy cập tại một thời điểm. Tuy nhiên nếu áp dụng mô hình kinh tế chia sẻ giữa:

  • Trường đại học (có sẵn lực lượng sản xuất tri thức là các giảng viên)
  • Nhà mạng viễn thông (có sẵn hạ tầng viễn thông như: mạng Internet, mạng 3G – 4G)
  • Người dùng sở hữu smart phone

Với nhu cầu học tập của xã hội trong kỷ nguyên 4.0 là không giới hạn, khi các bên tham gia chia sẻ các tài nguyên một cách hiệu quả, việc xây dựng xã hội học tập trên các nền tảng công nghệ sẽ trở nên hiệu quả, tiết kiệm chi phí.

Lợi ích của các các bên khi tham gia mô hình này có thể liệt kê tóm tắt như sau: Trường đại học chỉ tập trung vào sản xuất nội dung, học liệu và quản lý hệ thống học tập; các nhà mạng thu được một số lượng người sử dụng trung thành và cam kết sử dụng dịch vụ lâu dài; người học có thể tham gia học theo nhu cầu mọi lúc, mọi nơi với chi phí phù hợp thông qua thiết bị cầm tay thông mình.

Việc còn lại của các trường đại học là triển khai xây dựng các MOOC đa dạng theo nhu cầu học tập của xã hội. Các nhà mạng viễn thông đưa ra các chính sách, các gói cước và hạ tầng dành riêng cho giáo dục. Tại Việt Nam, chỉ có duy nhất nhà mạng Viettel thực hiện xây dựng nền tảng học tập trực tuyến Viettel Study. Tuy nhiên, do các khóa học được phát triển từ nhà mạng nên số lượng chưa nhiều và nội dung chưa phong phú.

Trước mắt các trường đại học, đặc biệt là các đại học Mở nên phát triển các MOOC một cách miễn phí nhằm mục đích phổ biến kiến thức và giá trị sống. Tuy nhiên để tham gia học các khóa MOOC một cách miễn phí, có thể người học phải trả lời các khảo sát thị trường hoặc xem các video clip quảng cáo để bù đắp chi phí cho nhà mạng viễn thông.

Khi các MOOC được xây dựng và phát triển một cách công phu với nhiều hoạt động như: ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài tập tình huống, tương tác thầy – trò (teacher – student interactive), tương tác ngang hàng (peer-to-peer).v.v. thì thu một mức phí nhất định. Các chi phí như cấp phát chứng chỉ hoàn thành khóa học cũng sẽ được tính toán cho phía các nhà phát triển nội dung, nhà mạng (Đặng Hải Đăng, 2018).

  1. Kết luận

Tạo môi trường phù hợp cho người dân học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Với những thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 và triết lý của mô hình kinh tế chia sẻ, việc xây dựng, phát triển và cung cấp các nguồn tài nguyên học liệu mở, các MOOC cho cộng đồng học tập là xu hướng tất yếu của các tổ chức giáo dục. Tuy nhiên, để xây dựng được các MOOC có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội thì cần có sự vào cuộc không chỉ của riêng các trường đại học và ngành giáo dục đào tạo mà còn cả các bên liên quan như các đơn vị truyền thông, nội dung số, nhà mạng viễn thông và trên hết là các chính sách điều hành vĩ mô phù hợp từ Chính phủ để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng xã hội học tập cho người học, vì người học.

 

 

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Hữu Độ, (2019) Xây dựng xã hội học tập nhằm chấn hưng nền giáo dục ở Việt Nam

Lấy tại địa chỉ website: http://tuyengiao.vn/giao-duc/xay-dung-xa-hoi-hoc-tap-nham-chan-hung-nen-giao-duc-o-viet-nam-119339

UNESCO, (2010) Guidelines for TVET Policy Review

[3] Dang, D., (2018) Country Reports: Vietnam – The Implement of Mobile Learning in Asia: Key Trends in Practices and Research – J. Voogt et al. (eds.), Second Handbook of Information Technology in Primary and Secondary Education, Spring International Handbooks of Education

Đặng Hải Đăng, (2018) Xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ các trường đại học bằng mô hình kinh tế chia sẻ, Tham luận hội thảo “Trường đại học với việc học tập suốt đời của người lớn” ngày 16 – 10 – 2018 tại Đại học Thái Nguyên.

We are social, (2018), Digital in 2018 in Vietnam: Essential insights into internet, social media, mobile and ecommerce use across the region

Lấy tại địa chỉ website: https://www.slideshare.net/truongbang/digital-in-2018-vietnam

Đặng Hải Đăng, (2017), Phát triển các khóa học MOOC không định bậc của Viện Đại học Mở Hà Nội: Hướng đi mới cho đào tạo suốt đời tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Các Đơn vị Liên kết Viện Đại học Mở Hà Nội tháng 08 – 2017

Scroll